Địa lý
- Diện tích: 256,83 km2.
- Dân số: 255.460(năm 2009)
- Mật độ dân số: 1.040 người/km²
Huyện Thái Thụy nằm ở phía Đông Bắc tỉnh Thái Bình; phía Đông giáp biển Đông, phía Nam và Đông Nam giáp huyệnTiền Hải, phía Tây Nam giáp huyện Kiến Xương, phía Tây giáp huyện Đông Hưng, phía Tây Bắc giáp huyện Quỳnh Phụ. Về phía Bắc, Thái Thụy giáp với các huyện của thành phố Hải Phòng là: huyện Vĩnh Bảo ở phía chính Bắc (ranh giới là sông Hóa), huyện Tiên Lãng ở phía Đông Bắc (ranh giới là đoạn cửa Thái Bình của sông Thái Bình). Phía Nam huyện có sông Trà Lý chảy men theo ranh giới với huyện Tiền Hải, đổ ra cửa Trà Lý. Chính giữa huyện có con sông Diêm Hộ chảy qua theo hướng Tây - Đông, đổ ra cửa Diêm Hộ, chia huyện thành hai nửa gần tương đương về diện tích.
Lịch sử
Địa bàn huyện Thái Thụy ngày nay trước đây vốn là hai huyện Thái Ninh và Thụy Anh. Trước khi hợp nhất:
- Huyện Thái Ninh có 22 xã: Thái An, Thái Đô, Thái Dương, Thái Giang, Thái Hà, Thái Hoà, Thái Học, Thái Hồng, Thái Hưng, Thái Lộc, Thái Mỹ, Thái Nguyên, Thái Phúc, Thái Sơn, Thái Tân, Thái Thành, Thái Thịnh, Thái Thọ, Thái Thuần, Thái Thượng, Thái Thuỷ, Thái Xuyên.
- Huyện Thụy Anh có 25 xã: Thụy An, Thụy Bình, Thụy Chính, Thụy Dân, Thụy Dũng, Thụy Dương, Thụy Duyên, Thụy Hà, Thụy Hải, Thụy Hồng, Thụy Hưng, Thụy Liên, Thụy Lương, Thụy Ninh, Thụy Phong, Thụy Phúc, Thụy Quỳnh, Thụy Sơn, Thụy Tân, Thụy Thanh, Thụy Trình, Thụy Trường, Thụy Văn, Thụy Việt, Thụy Xuân.
Ngày 17 tháng 6 năm 1969, huyện Thái Ninh hợp nhất với huyện Thụy Anh thành huyện Thái Thụy, gồm 47 xã: Thái An, Thái Đô, Thái Dương, Thái Giang, Thái Hà, Thái Hoà, Thái Học, Thái Hồng, Thái Hưng, Thái Lộc, Thái Mỹ, Thái Nguyên, Thái Phúc, Thái Sơn, Thái Tân, Thái Thành, Thái Thịnh, Thái Thọ, Thái Thuần, Thái Thượng, Thái Thuỷ, Thái Xuyên, Thụy An, Thụy Bình, Thụy Chính, Thụy Dân, Thụy Dũng, Thụy Dương, Thụy Duyên, Thụy Hà, Thụy Hải, Thụy Hồng, Thụy Hưng, Thụy Liên, Thụy Lương, Thụy Ninh, Thụy Phong, Thụy Phúc, Thụy Quỳnh, Thụy Sơn, Thụy Tân, Thụy Thanh, Thụy Trình, Thụy Trường, Thụy Văn, Thụy Việt, Thụy Xuân.
Ngày 5 tháng 9 năm 1975, thành lập xã Hồng Quỳnh thuộc huyện Thái Thụy.[3]
Ngày 18 tháng 12 năm 1976, cắt thôn Tân Hưng của xã Thái Đô nhập vào xã Thái Hòa; thành lập xã Mỹ Lộc trên cơ sở hợp nhất xã Thái Lộc, 4 thôn: Vũ Biên, Chỉ Thiện, Tân Minh, Liên Kết của xã Thái Mỹ và thôn Hải Linh của xã Thái Đô; phần còn lại của xã Thái Mỹ (gồm 2 thôn: Xuân Bắc, Xuân Trung) nhập vào xã Thái Thọ.
Ngày 25 tháng 6 năm 1986, thành lập thị trấn Diêm Điền trên cơ sở 40,81 ha đất với 3.373 nhân khẩu của xã Thụy Lương, 107,61 ha đất với 6.049 nhân khẩu của xã Thụy Hà, 29,31 ha đất với 892 nhân khẩu của xã Thụy Hải; tách 276,67 ha đất với 1.909 nhân khẩu của xã Thụy Lương để sáp nhập vào xã Thụy Hà.
Ngày 13 tháng 4 năm 2018, Bộ Xây dựng ban hành Quyết định số 487/QĐ-BXD công nhận thị trấn Diêm Điền mở rộng (gồm thị trấn Diêm Điền và 9 xã: Thụy Trình, Thụy Lương, Thụy Hà, Thụy Hải, Thụy Liên, Thái Thượng, Thái Nguyên, Thái An, Thái Hòa) là đô thị loại IV.
Đến cuối năm 2019, huyện Thái Thụy có thị trấn Diêm Điền và 47 xã: Hồng Quỳnh, Mỹ Lộc, Thái An, Thái Đô, Thái Dương, Thái Giang, Thái Hà, Thái Hoà, Thái Học, Thái Hồng, Thái Hưng, Thái Nguyên, Thái Phúc, Thái Sơn, Thái Tân, Thái Thành, Thái Thịnh, Thái Thọ, Thái Thuần, Thái Thượng, Thái Thuỷ, Thái Xuyên, Thụy An, Thụy Bình, Thụy Chính, Thụy Dân, Thụy Dũng, Thụy Duyên, Thụy Dương, Thụy Hà, Thụy Hải, Thụy Hồng, Thụy Hưng, Thụy Liên, Thụy Lương, Thụy Ninh, Thụy Phong, Thụy Phúc, Thụy Quỳnh, Thụy Sơn, Thụy Tân, Thụy Thanh, Thụy Trình, Thụy Trường, Thụy Văn, Thụy Việt, Thụy Xuân.
Ngày 11 tháng 2 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 892/NQ-UBTVQH14[4]. Theo đó:
- Hợp nhất 3 xã: Thụy Hồng, Thụy Dũng và Hồng Quỳnh thành xã Hồng Dũng
- Hợp nhất 2 xã Thụy Dương và Thụy Phúc thành xã Dương Phúc
- Hợp nhất 2 xã Thụy An và Thụy Tân thành xã An Tân
- Hợp nhất 3 xã: Thái Dương, Thái Hồng, Thái Thủy thành xã Dương Hồng Thủy
- Hợp nhất 2 xã Thái Sơn và Thái Hà thành xã Sơn Hà
- Hợp nhất 2 xã Thái An và Thái Hòa thành xã Hòa An
- Hợp nhất 2 xã Thái Thuần và Thái Thành thành xã Thuần Thành
- Hợp nhất 2 xã Thái Tân và Thái Học thành xã Tân Học
- Sáp nhập 2 xã Thụy Lương và Thụy Hà vào thị trấn Diêm Điền.
Huyện Thái Thụy hiện có 1 thị trấn và 35 xã.
Khí hậu
Khí hậu Thái Thụy thuộc vùng đặc trưng của khí hậu nhiệt đới ven biền Bắc bộ, chịu ảnh hưởng của gió mùa. Nhiệt độ Trung bình trong năm từ 22 - 24c; độ ẩm trung bình 86-87%; lượng mưa trung bình 1.788 mm/năm.
Thái Thụy có 1.552,3 ha rừng ngập mặn, tập trung tại các xã ven biển, có tác dụng lớn trong phòng hộ đê biển, điều hoà khí hậu và có giá trị lớn về cảnh quan môi trường, bảo tồn hệ sinh thái ngập nước ven biển, có cồn đen rộng hàng chục ha là nơi cớ thể phát triển ngành du lịch biển.
Với bờ biển đài 27 khi và hàng chục nghìn km2 lãnh hải, có 3 của sông lớn hàng năm đổ ra biển một lượng lớn phù sa, vùng biển Thái Thụy có một tiềm năng hải sản phong phú. Theo số liệu điều tra của Viện nghiên cứu Hải sản 1, trong vừng biển Thái Thụy có ít nhất 46 loài cá có giá trị kinh tế cao, 10 loài tôm, 5 loài mực, v.v...
Địa hình
Địa hình đồng bằng duyên Hải. Sông Hóa, sông Diêm Hộ, sông Trà Lý chảy qua; có cửa Thái Bình, cửa Diêm Hộ, cửa Trà Lý.
Huyện Thái Thụy nằm trong vùng đồng bằng châu thổ được bồi đắp bởi phù sa của hai con sông lớn Thái Bình và Trà Lý, địa hình có xu thế cao dần về phía biển, có 27 km bờ biển, hệ thống sông ngòi chằng chịt với các sông chính là sông Hoá, Sông Diêm Hộ và sông Trà Lý. Sông Hoá chảy qua phía Bắc của huyện, là ranh giới tự nhiên giữa huyện Thái Thụy và huyện Vĩnh Bảo - Hải Phòng đổ ra biển Ở cửa Thái Bình. Sông Diêm Hộ chảy từ Tây sang Đông chia huyện thành 2 khu: Khu bắc và khu Nam, đổ ra biển ở cửa Diêm Điền. Sông Trà Lý là chi lưu của sông Hồng, chạy qua phần phía Nam huyện, phân định ranh giới giữa huyện Thái Thụy với huyện Tiền Hải và Kiến Xương, đổ ra biển ở cửa Trà Lý.
Văn hóa, du lịch
Huyện Thái Thụy có nhiều địa điểm du lịch nghỉ mát như bãi biển Cồn đen (thuộc xã Thái Đô), rừng ngập mặn ven biển Thụy Xuân - Thụy Trường, Rừng ngập mặn ven biển xã Thái Thượng - Thái Đô (trong phạm vi Khu dự trữ sinh quyển châu thổ sông Hồng):, với rất nhiều loài chim quý hiếm như sếu đầu đỏ, cò,... và các loại thủy hải sản quý như ngao, tôm sú, cua..., mặt khác trong huyện cũng có rất nhiều các khu du lịch văn hóa nổi tiếng của tỉnh Thái Bình như lễ hội Chùa Bảo Linh (xã Thuỵ Phúc) Đền Hệ (xã Thuỵ Ninh) Đền Hét (xã Thái Thượng),Đền Hạ Đồng(xã Thụy Sơn) Đền Tam Tòa (xã Thụy Trường), Đình Từ và Đình Đông xã Thái Xuyên là những nơi thờ các vị anh hùng của dân tộc như Phạm Ngũ Lão, Trần Hưng Đạo.
Thái Thụy là huyện mới được thành lập bởi 2 huyện cũ là Thụy Anh và Thái Ninh (tên cũ là huyện Thanh Quan), thị trấn là Diêm Điền, tại đây có cảng biển, hàng Trung Quốc nhiều. Hai bộ phận Thái và Thụy dược phân chia bởi sông Diêm Hộ, huyện có rất nhiều xã, bên Thụy gồm xà Thụy Hà, Thụy Hải, Thụy Lương, Thụy Trường... Bên Thái gồm nhiều xã như xã Thái Thịnh, xã Thái Tân, Thái Hưng, Thái Xuyên, Thái Thành, Thái Thọ... Xã Thái Thịnh là căn cứ cách mạng thời chống Pháp, trước đây được nổi danh là làng Thần đầu, Thần huống. Là quê hương anh hùng dân tộc Lý Bí. (Các nhà nghiên cứu hiện nay chỉ ra rằng: thời Bắc thuộc, tỉnh Thái Bình hiện nay vẫn là biển. Nhân kỷ niệm 1.470 năm (542 - 2012) ngày cuộc khởi nghĩa Lý Bí bùng nổ, ngày 6/10/2012 tại Hà Nội, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam và UBND tỉnh Thái Nguyên tổ chức Hội thảo khoa học "Một số vấn đề về Vương triều Tiền Lý và quê hương của vua Lý Nam Đế" với sự tham dự của đông đảo các nhà sử học, nhà khoa học và nhân dân địa phương (Hà Nội, Thái Nguyên, Phú Thọ,...). Dựa trên cơ sở tư liệu điền dã thực địa ở các vùng: xã Tiên Phong - huyện Phổ Yên và huyện Thái Thụy, kết hợp với thần tích, truyền thuyết… còn lưu giữ tại các xã Giang Xá, Lưu Xá (huyện Hoài Đức), 27 tham luận tại hội thảo đưa ra kết luận vua Lý Nam Đế có quê gốc ở thôn Cổ Pháp, xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên). Có nhiều chiến công trong kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Quê hương của Nguyễn Đức Cảnh, người tham gia rất sớm vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Thái Thụy còn nổi tiếng với món gỏi nhệch, cá khoai, chả cá, sứa chua, canh ron, và gỏi sứa.